1 - Cảnh
Giới Thiền
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong
không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều
trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
không có nhân-tướng, không có chúng-sinh-tướng, không có
thọ-giả-tướng; cũng là lúc "tâm quá khứ không có,
tâm hiện tại không có, tâm vị lai cũng không có." Ðạt
tới cảnh giới này chưa phải là đắc được công phu thật
sự, cũng chẳng có gì đặc biệt đâu. Dù quý vị ngồi
được một giờ, hay ngồi được mười giờ, nhẫn đến
ngồi suốt một tháng, mười tháng, đó chẳng qua là công phu
của quý vị có được chút ít tương ưng, chỉ mới được
chút ít cảnh giới khinh an mà thôi. Trải qua cảnh giới nhẹ
nhàng khinh an, cứ tiếp tục tham Thiền thì quý vị sẽ nhập
cảnh giới Sơ-Thiền.
Sơ-Thiền-Thiên gọi là "Ly Sanh
Hỷ Lạc Ðịa," tức là cảnh giới xa rời những lạc
thú của chúng sanh. Tại cảnh giới "Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa,
quý vị rất mau nhập Ðịnh. Trong lúc nhập Ðịnh, hơi thở sẽ
ngừng hẳn-không ra không vào, không đi không đến-giống
như con rùa tới mùa đông thì rụt đầu vào mu, đình chỉ
sự hô hấp bên ngoài, song sự hô hấp ở bên trong vẫn
tiếp tục. Ðó là hiện tượng "đông miên." Người
tham Thiền, khi nhập Ðịnh thì ngừng thở, nhưng khi xuất Ðịnh
thì vẫn hít thở như thường. Quý vị hãy chú ý! Tới cảnh
giới này quý vị chớ khởi vọng niệm: "A! Ngừng thở
rồi!" Khi vọng niệm ấy nảy sinh thì hô hấp sẽ tiếp nối
ngay. Do đó không thể thiếu cảnh giác, bằng không quý vị
sẽ lỡ mất cơ hội và phải làm lại từ đầu.
Từ Sơ-Thiền, nếu quý vị tinh tấn
tu tập thì sẽ nhập Nhị-Thiền. Nhị-Thiền-Thiên gọi là
"Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa," tức là trong cảnh giới
Ðịnh, niềm hỷ lạc sanh khởi. Nên có câu:
Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn.(Thiền vị là thức ăn, sung mãn niềm vui Pháp.)
Nhập cảnh giới này, chẳng những
ngừng thở, mà tim cũng ngừng đập. Mạch tim chỉ ngừng
chớ không phải dứt hẳn, nên khi xuất Ðịnh sẽ trở lại
bình thường.
Từ Nhị-Thiền, nếu quý vị tiến tu
thì nhập Tam-Thiền. Tam-Thiền-Thiên gọi là "Ly Hỷ Diệu
Lạc Ðịa," nghĩa là xa rời mọi sự hoan lạc thô thiển,
chỉ còn niềm vui vi tế, vô cùng vi diệu. Nhập cảnh giới Ly
Hỷ Diệu Lạc Ðịa, thì không những hơi thở ngừng, tim hết
đập, mà ý niệm cũng dứt hẳn, hệt như một người chết
vậy. Lúc ý niệm dứt thì mọi vọng tưởng mông lung cũng
dứt.
Khi hơi thở ngừng lại máu huyết
hết dưỡng khí nên sự tuần hoàn cũng đình chỉ, do đó tim
cũng không đập, không còn có mạch nữa. Lúc ấy tạp niệm
chẳng còn. Giả sử hơi thở là gió, mạch là sóng, mà ý
niệm là nước-nếu gió im thì sóng lặng, nước tự nhiên
yên tịnh. Ðó chính là đạo lý "giớ ngừng, sóng
lặng" vậy. Ðây là tác dụng tạm thời lúc nhập Ðịnh
chứ không phải là dứt hẳn như khi chết. Lúc nào muốn
phục hồi hơi thở hay mạch đập thì chúng lại hoạt động
bình thường.
Từ Tam-Thiền mà tinh tấn tu
Thiền-định thì nhập cảnh giới Tứ-Thiền. Tứ-Thiền-Thiên
gọi là "Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa," nghĩa là xả
bỏ niềm vui vi diệu của Tam-Thiền, tâm niệm thanh tịnh. Hơi
thở ngừng, huyết mạch ngừng, ý niệm ngừng; song cảnh
giới ấy cũng phải xả bỏ luôn thì lúc đó bản tánh
Chân-như thanh tịnh mới hiện tiền. Cảnh giới này, quý vị
chớ nghĩ lầm là xuất sắc hay đặc biệt, bất quá chỉ là
ở cõi Tứ-Thiền mà thôi, chưa phải là cảnh giới chứng
đắc Ðạo-quả. Ðây vẫn còn là địa vị phàm phu, bởi vì
dục vọng chưa đoạn tuyệt. Từ cảnh giới này, nếu quý vị
tu phép Tà-định của ngoại đạo thì sẽ nhập Vô Tưởng
Thiên, thọ hưởng cảnh giới vô cùng an lạc. Nhưng nếu quý
vị tu phép Chánh-định thì sẽ nhập Ngũ Bất Hoàn Thiên, tức
là cảnh giới của bậc chứng quả.
Nếu chứng được Sơ-quả A-la-hán,
tức là quả vị Tu-đà-hoàn, thì không những khi nhập Ðịnh
không còn vọng niệm, mà khi đi đứng nằm ngồi đều chẳng
có vọng tưởng, chẳng có chấp trước. Ðạt được Sơ-quả
thì chỉ mới đoạn được tám mươi tám phẩm kiến-hoặc
(sự mê mờ do cái thấy) trong Tam-giới mà thôi. Hãy còn
bảy vòng sinh tử nữa, chứ chẳng phải chứng Sơ-quả là
nhập Niết-bàn được đâu. Lúc chứng được Sơ-quả, bất
luận là gặp cảnh giới gì cũng không bị dao động,
"đối cảnh vô tâm" (gặp cảnh, không khởi tâm
tưởng), duy chỉ có Ðạo-tâm, chuyên nhất tu Thiền. Giả như
cảnh giới bên ngoài có trang nghiêm, đẹp đẽ ra sao, như là
gái đẹp, trai bảnh, cũng không thể làm cho tâm quý vị dao
động. Lúc bấy giờ quý vị cũng chẳng tham tiền, tham sắc,
tham danh, tham ăn, hay tham ngủ nữa. Mọi thứ đều không tham
thì mới có thể gọi là chứng quả. A-la-hán Sơ-quả đi
không gây ra tiếng động bởi vì chân họ cách xa mặt đất
ba phân. Vì sao vậy? Vì thánh-nhân đắc quả có lòng từ bi,
sợ rằng sẽ đạp chết các côn trùng nhỏ, nên mới đi
trong hư không.
Quý vị hãy chú ý! Không được
tự xưng là đã chứng ngộ khi chưa chứng ngộ, hay là đã
đắc quả khi chưa đắc quả. Như thế là phạm giới vọng
ngữ, tương lai phải đọa địa ngục kéo lưỡi. Tôi phải
nói trước cho quý vị rõ, còn tin hay không là tùy ở quý
vị. Trong số Phật tử có kẻ chưa khai ngộ mà cứ tự rêu
rao là đã khai ngộ, đó là hành vi không thể chấp nhận
được. Dù thật quý vị đã khai ngộ, quý vị cũng không
nên khoe khoang: "Tôi khai ngộ rồi! Tôi có Ngũ-Nhãn
Lục-Thông rồi nè!" Quý vị chớ tự tuyên truyền, tự
mình quảng cáo cho mình; vì như thế thật chẳng có ý nghĩa gì
cả.
Ngay cả Phật và Bồ-tát, các Ngài
cũng không tự tuyên truyền, tự quảng cáo. Nếu có ai biết
vị này là Bồ-tát hay vị kia là Phật hóa thân thị hiện ở
thế gian, thì các Ngài liền biến mất. Ðời Ðường có hai
vị Ðại-sư, một vị là Hàn Sơn, một vị là Thập Ðắc. Hàn
Sơn là hóa thân của Ðức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, còn
Thập Ðắc là hóa thân của Ðức Phổ Hiền Bồ-tát. Cả hai
ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc vốn là quý vị đồng tu rất
thân với nhau. Ngài Thập Ðắc khi còn thơ ấu được
Phương-trượng Phong Can đem về Chùa Quốc Thanh nuôi nấng và
dạy bảo. Ngài Thập Ðắc chuyên việc nấu nước trong nhà
trù và mỗi ngày góp nhặt đồ ăn thừa cho vào ống trúc
đem cúng dường ngài Hàn Sơn. Ngài Hàn Sơn thì ngụ ở
động Nguyệt-quang trên núi Thiên-thai, mỗi ngày tới Chùa
Quốc Thanh nhận đồ thừa để ăn. Hai ngài tâm đồng ý
hiệp, thường cười đùa bỡn cợt với nhau, nên cả chùa
ai cũng cho các ngài là hai người điên, chẳng ai đếm xỉa
gì đến họ cả. Không ai biết rằng hai ngài là Bồ-tát hóa
thân, du hý ở nhân gian để cứu độ những chúng sanh cần
được độ.
Một hôm, quan Thái-thú Lã Khưu
Yên tới gặp Hòa-thượng Phong Can và hỏi rằng: "Thưa
Thiền-sư, trong quá khứ chư Phật và Bồ-tát thường hóa
thân tới thế giới này, vậy thời nay chư Phật và Bồ-tát
có còn hóa thân tới cõi này nữa hay không?"
Ngài Phong Can đáp: "Có chớ!
Bất quá ngài không nhận ra mà thôi. Bây giờ tại Chùa
Quốc Thanh núi Thiên-thai, vị Thầy chuyên nấu nước ở nhà
trù chính là Phổ Hiền Bồ-tát đấy. Thầy có một người
bạn là Hàn Sơn, tức là Văn Thù Bồ-tát. Sao ngài nói
chẳng có ai?"
Lã Thái Thú nghe xong rất vui mừng,
bèn đi gấp đến Chùa Quốc Thanh để đảnh lễ hai vị Bồ-tát
Hàn Sơn và Thập Ðắc.
Thầy Tri-khách Chùa Quốc Thanh thấy
quan Thái-thú đến viếng thì ân cần tiếp đãi. Nhưng khi nghe
vị quan này muốn gặp Hàn Sơn và Thập Ðắc thì ngạc nhiên
vô cùng, chẳng biết vì sao ông ta lại muốn gặp hai người
điên này. Tuy không hiểu được lý do, Thầy cũng dẫn quan
Thái-thú tới nhà trù. Bấy giờ đúng lúc hai ngài Hàn
Sơn và Thập Ðắc đang cười nói bô bô như hai kẻ điên
khùng khiến ai cũng nực cười. Nhưng Lã Thái Thú vô cùng
cung kính đảnh lễ hai Ngài, rồi cũng hết sức cung kính thưa:
"Ðệ tử là Lã Khưu Yên xin thỉnh cầu quý Ðại Bồ-tát
từ bi dạy bảo cho kẻ mê muội này!"
Ngài Thập Ðắc hỏi: "Ông làm
gì thế?"
Thái-thú đáp: "Con nghe
Hòa-thượng Phong Can dạy rằng hai Ngài là hóa thân của
Ðức Văn Thù và Ðức Phổ Hiền. Bởi vậy con đặc biệt
tới đây để xin đảnh lễ và khẩn cầu quý Ngài khai thị
cho con."
Ngài Thập Ðắc nghe xong thì vừa
thụt lùi vừa nói: "Ngài Phong Can nói nhảm! Ngài Phong Can
nói nhảm! Ngài Phong Can là hóa thân của Ðức A Di Ðà, sao
không lạy Ngài mà lại tới đây quấy rầy chúng tôi?"
Nói xong thì chạy ra khỏi chùa, lên
tới động Nguyệt-quang núi Thiên-thai rồi, cả hai ngài nhập
vào vách đá. Thái-thú thấy vậy vô cùng thất vọng bởi
vì hai vị Bồ-tát đã ẩn mình trong vách đá, không ra nữa.
Ông ta nghĩ thầm: "Thôi hãy về lạy Ðức Di Ðà
vậy!"; nhưng khi y về tới chùa thì mới hay Ngài Phong Can
cũng đã viên tịch. Ðúng là "đang diện thác quá"
(vuột mất cơ hội trước mắt). Cho nên có câu rằng:
"Ðối diện với Ðức Quán Thế Âm mà chẳng nhận ra được Ngài."
Trong Thiền-đường này cũng có
Quán Thế Âm Bồ-tát, song tôi không thể tiết lộ cho quý vị
biết được, để Ngài khỏi bị quý vị đuổi chạy mất!
2 - Ngồi
Thiền Có Thể Chấm Dứt Sinh Tử
Vào những năm cuối của triều
đại Bắc Tống, Trung Quốc có một vị anh hùng dân tộc tên
là Nhạc Phi. Cha ông qua đời khi ông còn thơ ấu. Mẹ ông
là một người hiền đức, trí huệ. Cả hai mẹ con nương
tựa nhau mà sống. Nhạc Phi được mẹ dạy học và dạy
viết. Bởi nhà quá nghèo, không có tiền mua giấy bút và
mực nên Nhạc Phi phải tập viết chữ trên cát; thế mà về
sau ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Ðến lúc trưởng thành
thì ông đầu quân. Mẹ ông lúc ấy xâm trên lưng ông bốn
chữ "tận trung báo quốc" để nhắc ông phải luôn ghi
nhớ chí nguyện lớn lao cứu nước cứu dân.
Lúc bấy giờ quân Kim xâm lược
Bắc Tống, chiếm Biện-kinh (Khai-phong), đày hai vua Hội Tông và
Khâm Tông lên miền Bắc. Hội Tông là vua đã thoái vị, có
hai người con là Khâm Tông và Khang Vương. Khang Vương lúc
ấy đang ở Hàng-châu, liền lên ngôi, đặt tên nước là
Nam Tống, tự xưng là Tống Cao Tông, phong Tần Cối làm
Tướng-quốc. Ðương thời, các quan văn thì chủ trương hòa
giải với quân Kim, nhưng các quan võ thì chủ trương chiến
tranh.
Bấy giờ Nhạc Phi đại thắng quân
Kim ở trấn Chu-tiên (rất gần Biện-kinh) và dự định tiến
đánh kinh đô quân Kim ở Hoàng-long (tức Kiết-lâm, Nông-an
bây giờ). Chẳng may Nhạc Phi bị Tần Cối đố kỵ và dùng
mười hai đạo kim bài giả để triệu hồi về kinh thành.
Nhạc Phi vốn mang tư tưởng "trung quân, ái quốc" nên
vâng mệnh vua trở về kinh đô. Lúc tới sông Trường-giang,
ngang qua Chùa Kim Sơn, ông đến bái kiến Thiền-sư Ðạo Duyệt.
Thiền-sư Ðạo Duyệt khuyên ông
đừng trở về kinh thành, hãy ở lại Chùa Kim Sơn
(Trấn-giang) xuất gia tu hành thì có thể sẽ tránh được tai
nạn. Song, Nhạc Phi vốn đã coi thường sống chết và lại
nghĩ rằng bổn phận kẻ làm tướng là phải tuân mệnh vua,
không thể cho là "tướng ở ngoài có lúc không phải
tuân theo lệnh vua." Do đó ông đã không nghe theo lời
khuyên của Thiền-sư Ðạo Duyệt. Lúc chia tay, Thiền-sư tặng
ông một bài kệ:
Tuế để bất túc,Cẩn phòng thiên khốc,Phụng hạ lưỡng điểm,Tương nhân hại độc.(Chưa đến cuối năm,Ðề phòng trời khóc,Dưới "phụng" hai chấm,Hãm hại ngươi đấy!)
Khi Nhạc Phi về tới Hàng-châu,
Tần Cối dùng ba chữ "Mạc tu hữu" (bịa đặt) để
hạ lịnh bỏ tù hai cha con Nhạc Phi. Gần đến ngày thọ hình,
Nhạc Phi mới chợt hiểu thâm ý bài kệ của Thiền-sư Ðạo
Duyệt. Năm ấy, ngày hai mươi chín tết, trời mưa tầm tả.
Nhạc Phi ngồi trong ngục lắng nghe tiếng mưa rơi và chợt vỡ
lẽ rằng đại nạn đã kề bên. Lời tiên tri của Thiền-sư
Ðạo Duyệt cuối cùng đã ứng nghiệm. "Phụng hạ lưỡng
điểm" (dưới chữ "phụng" có thêm hai chấm)
tức là chữ "tần," ám chỉ Tần Cối. Quả nhiên
Nhạc Phi sau đó bị xử chém tại Phong Ba Ðình.
Bấy giờ Tần Cối hỏi đao phủ:
"Nhạc Phi khi sắp bị chém có nói gì chăng?" Ðao phủ
đáp: "Tôi chỉ nghe y nói rằng y hối hận vì không chịu
nghe lời Thiền-sư Ðạo Duyệt ở Chùa Kim Sơn nên mới nhận
lãnh hậu quả thê thảm này." Nghe vậy, Tần Cối vô cùng
tức giận, liền phái Hà Lập tới Chùa Kim Sơn gấp để bắt
Thiền-sư Ðạo Duyệt. Song Thiền-sư trong khi nhập Ðịnh một
ngày trước đó đã biết được nhân duyên này, nên Ngài
đã để lại một bài kệ:
Hà Lập tự Nam lai,Ngã vãng Tây-phương tẩu.Nhược phi Phật-pháp đại,Khải bất lạc tha thủ.
Nghĩa là:
(Hà Lập từ Nam đến,Ta nhắm Tây-phương đi.Phật-pháp nếu không tường,Ắt lọt vào tay hắn.)
Chuyện này chứng minh rằng khi công
phu Thiền-định của người tu hành đã tới cực điểm thì
có thể khống chế được sinh tử, muốn lúc nào vãng sinh
cũng được, tự mình điều khiển định mệnh-đó là một
điều rất đương nhiên. Thuở xưa, các Thiền-sư đều có
công phu như vậy-tự do sống chết, toại tâm như ý. Ðời
Ðường có vị Thiền-sư tên Ðặng Ẩn Phong, có thể lộn
ngược đầu xuống đất mà viên tịch. Gần đây có vị Phật
Sống ở Chùa Kim Sơn đứng mà viên tịch. Ðó đều là nhờ
có công phu Thiền-định nên họ có thể đến và đi tự do,
không bị hạn chế gì cả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét